![]() |
ĂN CHAY VÀ SỨC KHỎE http://olymptrade-id.org/download |
![]() |
(Theo bài giảng của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm)
Theo quan niệm phổ thông của hàng Phật tử Việt Nam,
ăn chay là dùng những chất thanh đạm, không ăn cá thịt và các thứ hôi nồng thuộc
về loại ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ). Nếu dùng cá thịt và ngũ tân,
người ta gọi là ăn mặn. Nhưng thật ra, chữ "Chay" nói trại là nguyên âm "Trai"
và Trai có nghĩa là Trung hoặc Thời thực. Trung hay Thời thực là dùng bữa giữa
ngày vào giờ Ngọ, nếu ăn quá ngọ gọi là phi thời thực. Còn dùng chất thanh đạm,
nên gọi là "tố thực", nghĩa là "ăn lại", mới xác đáng hơn. Tuy nhiên, chữ Trai
dịch từ Phạm âm Ô ba va sa tha (Upavasatha), lại có nghĩa là "thanh tịnh". Và
bởi ăn lại cũng có tánh cách làm cho thân tâm con người nhẹ nhàng thanh tịnh,
nên bên Ðại thừa giáo mới chuyển lần ý nghĩa Tố thực xem đồng với Trai thực. Vậy
tiếng "Chay" tuy không hoàn toàn xác đáng với nguyên thủy của nó, nhưng cũng có
một phần nào ý nghĩa, nên bút giả xin dùng danh từ này với ý dùng chất thanh đạm
cho hợp với quan niệm phổ thông của Phật tử Việt Nam.
Phần đông Phật tử không hiểu xác đáng ý nghĩa ăn chay, nếu có hỏi duyên do thì
trả lời một cách đại khái: "Tôi ăn chay để tập lần tánh nết cho thêm bình tĩnh
hiền lương". Lại có những lời đồn huyễn bảo: "Ăn chay sẽ khỏi tai nạn bom nguyên
tử, hoặc ma vương sắp ra đời, hay sắp tận thế, ai không ăn chay sẽ bị chết hết,
không được dự hội Long Hoa". Những truyền thuyết như trên đều không có căn bản,
làm cho nhiều người cố tự ép ăn chay một cách gắng gượng, kết cuộc qua một thời
gian rồi cũng thôi bỏ. Theo Phật giáo, ăn chay có những ý nghĩa như sau:
1- Vì lòng thương xót chúng sanh: Ðã là loại hữu tình, loài nào
cũng biết đau đớn buồn khổ và ham sống sợ chết, trừ những duyên cớ riêng biệt.
Chính mình khi bị vấp ngã hay đứt tay một chút, còn cảm thấy đau đớn, huống chi
là cảnh đâm chém, đập giết, thiêu nướng, xẻ thịt, banh da! Như thế tại sao ta
lại nỡ an nhiên vui vẻ, ăn uống trên sự đau khổ vô hạn của chúng sanh? Chính
mình khi sắp bị giết đã khóc thương sợ hãi, hoặc người thân bị giết thì cũng xót
xa, oán hận, đau buồn! Như thế tại sao ta lại nỡ làm cho chúng sanh khác sợ hãi
đau thương lúc sắp bị giết, bị chia ly cùng quyến thuộc? Ðức Phật là đấng đại từ
bi, nên người con Phật thể theo lòng từ bi đó mà ăn chay, để tránh việc trực
tiếp hoặc gián tiếp sát sanh đầy thê thảm ấy. Trong kinh Lăng Già, đức Thế Tôn
bảo Ðại Huệ Bồ Tát: "Những người ăn thịt đoạn hết hạt giống đại từ. Ta xem chúng
sanh luân hồi trong sáu nẻo, đời đời làm cha mẹ anh em chồng vợ con cái lẫn
nhau. Chúng sanh ăn thịt nhau, toàn là ăn thịt lục thân quyến thuộc của mình.
Thế mà loài hữu tình mơ màng không biết, thường sanh lòng giết hại, làm cho
nghiệp khổ thêm lớn, khiến nên mãi bị lưu chuyển trong đường sanh tử, không được
thoát ly. Kẻ không ăn thịt, sẽ được vô lượng công đức tụ. Nếu tất cả mọi người
không ăn thịt, thì không ai giết hại chúng sanh. Do có người ăn thịt tìm hỏi để
mua, nên mới có kẻ vì cầu tài lợi giết chúng sanh để bán. Cho nên kẻ ăn thịt
cùng người giết chúng sanh để bán thịt, cả hai đều có tội".
2- Vì tránh ác báo của nghiệp sát: Bởi tham miếng ngon, nên
con người mới tạo nghiệp giết hại. Nhưng vì vô minh che lấp, không rõ thấu lý
nhân quả, nên kẻ gây nghiệp sát đâu biết hành vi đó trở lại làm khổ chính mình.
Theo lý nhân quả trong kinh, người tạo sát nghiệp, như nặng tất bị đọa vào tam
đồ, nhẹ thì phải chịu nhiều đau bịnh, hoặc chết yểu, cùng sự khổ nạn về chiến
tranh. Kinh Niết Bàn nói: "Tội sát sanh có ba bậc: thượng, trung, hạ. Nghiệp sát
bậc hạ, là giết từ loài kiến cho đến tất cả bàng sanh. Người tạo tội nầy phải bị
đọa vào tam đồ, chịu sự khổ về bậc hạ. Tại sao thế? Bởi loài nhỏ dù là con kiến,
con muỗi cũng có chút căn lành, nếu giết nó thì phải chịu tội báo. Nghiệp sát
bậc trung là giết từ phàm phu trong loài người cho đến bậc A Na Hàm. Người tạo
tội nầy phải bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh, chịu sự khổ về bậc trung.
Nghiệp sát bậc thượng là giết từ cha mẹ cho đến bậc A La Hán, Bích Chi Phật.
Người tạo tội nầy, phải bị đọa vào đại địa ngục A Tỳ, chịu sự khổ về bậc
thượng".
3- Vì muốn dứt tâm tham nhiễm nơi vị trần: Trong mười pháp
giới, nếu nói tóm tắt, duy có hai nẻo: phàm và thánh. Phàm phu tâm còn nhiễm ô
phiền não, chư thánh tâm hằng sáng sạch lặng trong. Bởi thế cho nên hàng Phật tử
muốn vượt phàm lên thánh, thoát nỗi khổ luân hồi, phải bỏ nhiễm về tịnh. Mà muốn
được tịnh tâm, phải ngăn ngừa đừng cho sáu căn nhiễm sáu trần. Người nào ăn chay
mà cảm thấy khó khăn, đó bởi do còn thích món ăn ngon, nghĩa là thiệt căn còn
nhiễm vị trần. Vì thế, muốn dễ được tịnh tâm, người Phật tử nên tập lần từ ăn
chay kỳ đến chay trường.
Có kẻ hỏi: - Tại sao bên Phật giáo Nam tông vẫn còn ăn mặn? Và nếu không thanh
tịnh, tại sao những vị bên phái ấy lại chứng thánh quả? Xin đáp: - Ðức Phật vì
tùy hoàn cảnh căn cơ, trong khi nói giáo pháp Nhị thừa, phương tiện tạm mở cho
ăn ngũ tịnh nhục (không thấy giết, không nghe giết, không nghi giết, thịt con
thú tự chết, thịt loài thú khác ăn còn dư). Nhưng đến khi thuyết qua giáo nghĩa
Ðại thừa, ngài lại triệt để cấm dùng đồ huyết nhục, vì lẽ mất lòng từ bi bình
đẳng, và gây nhân vay trả luân hồi. Như trong kinh Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn còn
khuyên không nên dùng đồ bằng da, bởi còn thọ dụng một thân phần của chúng sanh
tức là còn mắc nợ nó, huống chi là thường ăn thịt? Trong kinh Ương Quật Ma, ngài
Văn Thù Bồ Tát thưa: "Bạch Thế Tôn! Phải chăng nhân vì Như Lai tạng, nên chư
Phật không ăn thịt?" Ðức Phật bảo: "Nầy Văn Thù! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến
nay sống chết luân hồi từng cùng làm lục thân quyến thuộc, thay đổi vô thường
cũng như trò hát. Thân mình và thân loài khác đồng là chất huyết nhục, vì thế
nên chư Phật không ăn thịt. Lại nữa, chúng sanh giới tức là ngã giới, thịt loài
khác chính là thịt của mình, nên chư Như Lai không ăn thịt. Nầy Văn Thù! Như con
bò tự chết, người chủ dùng da nó làm giày dép đem bố thí kẻ giữ giới. Như bậc
giữ giới không thọ tức là pháp Tỷ khưu; nếu thọ trì tuy không phải phá giới,
song thiếu tâm từ bi. Cho nên, không thọ dụng thân phần của hữu tình, tức là lần
lượt lìa nhân duyên sát sanh vậy". Ðời Ðường bên Trung Hoa, Ðạo Tuyên luật sư
giữ giới tinh nghiêm, nên chư thiên thường hiện thân ủng hộ. Cứ theo bộ Tuyên
Luật Sư Cảm Ứng Ký, Tứ thiên vương thưa với Tuyên sư rằng: "Thuở đức Như Lai còn
ở đời, một hôm ngài phóng ánh sáng lớn bảo các thiên, long, quỉ, thần: - Sau
thời chánh pháp diệt tận, có nhiều vị Tỷ khưu chấp theo giáo tích Tiểu thừa của
ta, không hiểu ý nghĩa Tỳ ni, bảo rằng ta cho các Sa môn ăn thịt. Vì thế, trong
tăng già lam hiện ra cảnh tượng sát sanh cũng như lò thịt. Lại có các vị Tỷ khưu
mặc đồ tơ lụa gần gũi nơi quán rượu dâm xá, không học ba tạng, chẳng giữ cấm
giới, làm cho đạo pháp ta suy vi, thật đáng thương xót! Nên biết từ vô lượng
kiếp đến nay, ta tu Bồ Tát hạnh đã xả bỏ đầu, mắt, tủy, não, vì tâm từ bi không
tiếc thân mạng để bố thí cho loài hữu tình, có lẽ nào lại bảo đệ tử mình ăn thịt
chúng sanh? Ta niết bàn rồi, các Tỷ khưu thay thế ta làm thầy trời người dẫn dạy
hữu tình khiến cho đắc đạo quả; có lẽ nào bậc thiên nhơn sư mà lại ăn thịt chúng
sanh ư? Khi ta mới thành đạo, tuy trong luật có mở ra cho ăn năm thứ tịnh nhục,
nhưng đó không phải thật là thịt của bốn loài, mà là thịt do sức thiền định bất
tư nghì của ta biến hóa ra. Trong các kinh Niết Bàn, Lăng Già, ta không cho
người trì giới ăn thịt. Nếu có Tỷ khưu nào bảo rằng trong Tỳ ni giáo, Phật cho
ăn cá thịt, cho mặc áo tơ lụa, đó là lời ma thuyết, là phỉ báng ta!" Lời Phật đã
dạy như thế, nếu ăn thịt cá mà không trước nhiễm cũng có thể chứng quả thánh như
các vị bên Nam tông đã tu chứng. Nhưng nếu so hai phương diện ăn chay và mặn,
thì ăn chay dễ đoạn nhiễm tâm hơn; đến như về nghĩa từ bi bình đẳng, bên ăn chay
lại hoàn toàn hợp lý. Thế nên biết giáo nghĩa Nhị thừa chỉ là phương tiện tạm
thời, giáo nghĩa Ðại thừa mới là chân thật cứu cánh. Vậy người tu nên hướng theo
lẽ phải và xét lại năng lực của mình, đừng quá cầu cao tự cho là bậc viên dung
tự tại, vội nói câu "Tửu nhục xuyên trường quá. Bất ngại bồ đề đạo" (Chất rượu
thịt ăn vào cũng ra ngoài, không ngại chi đến sự giải thoát cả) mà lầm.
4- Vì để cho thân tâm nhẹ nhàng, dễ thực hành trên đường tu:
Ăn chay nếu đúng cách thì hợp với vệ sinh, và khiến cho thân tâm thanh tĩnh nhẹ
nhàng thuận tiện trên đường tu tập. So lại thì khi dùng mặn, ta cảm thấy trong
người nặng nề mệt nhọc, chất ăn khó tiêu hơn. Các nhà bác học hữu danh đông tây
đã công nhận lẽ đó. Như ông Sénèque, một triết gia, đã nói: "Mỗi bữa ăn, người
ta dùng thịt là tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà không hay.
Do đó loài người bị nhiều bịnh mà chết sớm". Những y khoa bác sĩ trứ danh như
các ông: Soteyko, Varia Kiplami cũng bảo: "Trong các thứ thịt có nhiều chất độc
rất nguy hiểm cho sức khỏe con người". Và bà White, nhà nữ bác học, sau một cuộc
thí nghiệm đã tuyên bố: "Các thứ hột, trái cây, đậu và rau cải là những thức ăn
mà thiên nhiên đã dành để nuôi chúng ta. Các thức ấy chỉ cần nấu nướng một cách
đơn giản, thì ăn vào hợp vệ sinh và rất bổ. Nó làm cho con người thân thể tráng
kiện, tinh thần sáng suốt và tránh được biết bao nhiêu là bịnh tật!" Chất máu
thịt vốn là uế trược, hơn nữa loài thú khi bị giết sanh lòng uất hận, độc khí
lưu trữ vào tế bào, hoặc gặp nhằm những con vật mang bịnh, như bịnh lao, bịnh
sán..., nếu người ăn vào làm sao khỏi sanh đau yếu?
Có vị hỏi: - Nếu ăn chay cũng đủ sanh tố, tại sao tôi thường thấy người ăn chay
trường phần nhiều đều có vẻ xanh và gầy? Xin đáp: - Ðó là do nhiều nguyên nhân
khác biệt, không phải lỗi ở sự ăn chay; chẳng hạn như vấn đề tâm lý, hoặc không
biết cách thức dùng chay. Về tâm lý, như có người ăn chay với tánh cách gắng
gượng, mãi thèm những đồ mặn, lầm nghĩ rằng ăn chay thiếu sức khỏe, thường đem
lòng lo lắng e ngại. Hoặc có người tu, mà chưa diệt được niệm tưởng mơ sắc dục,
hoặc làm việc suy nghĩ quá nhiều. Những tâm trạng ấy có ảnh hưởng không tốt cho
sức khỏe, bằng chứng như ta thường thấy người nào trải qua một đêm lo nghĩ, sáng
ra gương mặt họ hiện rõ vẻ tiều tụy bơ phờ. Về việc không biết cách dùng chay,
như những người vì lỡ phát nguyện, nên ăn chay một cách bắt buộc lấy có, chỉ
dùng tương chao, ít lát dưa, hoặc muối sả ớt cho qua bữa. Hơn nữa nhiều người
quan niệm tu là phải khổ hạnh, nên không mấy chú ý đến việc ăn uống; hoặc kho
đầu củ cải, vỏ dưa, chiên xơ mít, hay làm những thức ăn giống đồ mặn rất công
phu, song thật sự không có bao nhiêu chất bổ. Ngoài ra, tập tục của các chùa
Việt Nam thiên về sự tụng niệm cúng lễ, thường khi liền cả đêm ngày. Sự sinh
hoạt của Phật giáo Việt Nam lại nghèo, chư tăng ni thiếu phương tiện học tập,
phải dùng sức quá nhiều, nên vị nào khi học thành tài hầu hết đều suy gầy đau
yếu. Ðó là đại lược những nguyên do khiến cho người tu thường kém sức khỏe,
chẳng phải lỗi ở nơi không ăn cá thịt. Nếu ăn chay mà hợp cách, với lòng hiểu
đạo hoan hỷ, và đường lối tu không thái quá bất cập, thì đã ít bịnh tật, lại
thêm có lợi ích cho thân tâm.
Tóm lại, ý nghĩa của ăn chay là vì lòng từ bi, vì tránh ác báo, vì lìa trần
nhiễm, vì thuận ích cho đường tu. Nếu lập cơ bản nơi bốn điểm nầy mà dùng chay,
thì sự thực hành sẽ bền và tăng thêm phước huệ. Như trái với cơ bản đó, tất việc
làm chỉ có tánh cách thời gian, khó bền bỉ, kết cuộc không được lợi ích gì thiết
thật trên đường tu.
Tôn ảnh Phật, Bồ Tát |
Hội PG Thảo Đường |
Hội Phật Giáo Thảo Đường tại Moskva thành lập ngày 04 tháng 06 năm 1993. Hội trưởng của Hội Phật Giáo Thảo Đường từ ngày thành lập đến nay là bà Inna Malkhanova.
Lịch sinh hoạt Phật sự |
Hàng tháng, Hội Phật giáo Thảo Đường tổ chức tụng kinh vào 2 ngày: Mồng một và ngày rằm. Khi có lễ lớn hoặc nhân dịp quý Thầy sang, Hội sẽ thông báo cụ thể.
Hình ảnh sinh hoạt |
Từ ngày được thành lập đến nay, Hội Phật giáo Thảo Đường đã tổ chức nhiều buổi lễ trang nghiêm và cũng nhiều lần cung thỉnh các Thầy về để giúp cho các Phật tử của Hội hiểu thêm giáo lý của Đức Phật, tăng trưởng đạo tâm.
Tôn ảnh Phật ngọc |
Phật ngọc là biểu tượng cho hòa bình thế giới. Tượng Phật cao 2 mét 7 được đặt trên pháp tòa có chiều cao 1 mét 4, với trọng lượng nặng trên 4 tấn.
Các trang web liên kết |